(Tiếp theo…)
Thập niên 50
Bối cảnh & nghệ sỹ
Dòng nhạc Hard Bop đến Cool School: Paul Chambers, Charles Mingus, Wilbur Ware, Percy Heath, Red Mitchell, Monty Budwig, Leroy Vinnegar
Dòng nhạc Big-City Jump: Joe Comfort, Wendell Marshall, Al Morgan, Rolly Dee, Herb Gordy, Heywood Henry, Clarence Mack, Shifti Henri, Ted Shirley
Dòng nhạc Urban Blues: Willie Dixon, Ransom Knowling, Dave Myers, Big Crawford
Dòng nhạc Rockabilly: Bill Black, Dorsey Burnette, Clayton Perkins, Marshall Grant, Marshall Lytle
Dòng nhạc Latin jazz: Cachao, Bobby Rodriguez
Dòng nhạc Nashville trad: Bob Moore
Những phát minh
Thời kỳ này, đã phát minh ra cây bass “Fender Precision” (năm 1951),
Rickenbacker 4000 (1957),
Fender Bassman combos (1×15, 1952; 4×10, 1954); thời kỳ này cũng phát minh ra dây đàn upright bằng thép.
Fender Precision Bass
“Chúng tôi phải đem lại sự thoải mái cho những người chơi bass không phải ở trong ngôi nhà ổ chuột to lón, đó là acoustic bass.”
—Leo Fender
Đây là nơi mà tất cả bắt đầu. Một số người khác đã thử chế ra đàn bass điện, nhưng cây Precision Bass của Leo Fender năm 1951 là cây bass đầu tiên được sản xuất hàng loạt. Liệu Fender và đối tác của ông, George Fullerton, có biết rằng đàn bass có phím của họ, có thân mỏng, dài 34″ sẽ thay đổi thế giới? Nhung chác họ cũng đã biết họ đang làm gì. Những nhạc công như Monk Montgomery, Shifti Henri cho tới Dave Myers đều phổ biến âm thanh mới mẻ của cây bass này và Fender đã luôn tinh chỉnh cây P-bass này trong suốt những năm 50. Đến giũa năm 1954 cây đàn theo kiểu Telecaster có đường viền trên body mới phản ánh đuocj cây guitar Stratocaster của Fender. Pickup dạng single-coil có nhiều cực cũng được sản xuất vào đầu năm 1955 để cân bằng âm lượng giữa các dây đàn.
Cuối cùng, giữa năm 1957 chúng ta đã thấy sự ra đời của cây Precision cổ điển, với pickup dạng split-coil humbucking (pickup to chia hai lõi cuộn) và kiểu đầu cần đàn dạng Strat. Năm 1959 có thêm sự lựa chọn là mặt cần đàn bằng gỗ Rosewood (Rosewood fingerboards trở thành một tùy chọn trong những năm ’59). Đây là mẫu đàn bị sao chép nhiều nhất.
Vibist Lionel Hampton là một trong những người đầu tiên ủng hộ P-Bass. Ông yêu cầu tay bass của mình, Roy Johnson, sử dụng cây Precision và âm thanh của nó đã lôi cuốn nhà phê bình Leonard Feather, người đã viết về nó trong tạp chí Down Beat ngày 30 Tháng Bảy 1952. Sau khi Johnson rời ban nhạc của Hampton, Monk Montgomery đã chơi lại cây Precision; Monk xứng đáng là nhạc công đầu tiên đã để lại dấu ấn với nhạc cụ này. Anh trai của tay guitar Wes, Monk tiếp tục chơi trên bass điện trong suốt sự nghiệp của mình, và cách chơi của đàn theo kiểu upright của ông luôn rất chắc chắn.
Những người chơi Blues cũng tận dụng sụ thuận lợi của cây đàn điện của Leo Fender. Đàn Precision đã chứng minh sự gọn gàng, di động và âm lượng to hơn trên các câu lạc bộ và sàn diễn chật hẹp.
Ngay lập tức các nghệ sỹ như BB King, Little Walter và Junior Wells cho đến Big Mama Thornton (quán quân bảng xếp hạng R& đã được lựa chọn những người chơi bass điện. Dave Myers chơi trong Chicago, người đã chuyển sang P-Bass từ guitar, đã không chọn upright, trong năm 1958 đã thu âm các bài của mình với cây bass điện chơi qua bộ amply Bassman 4×10. Dave đã nói vào tháng 10 năm 1998 “Tôi là một người đã làm cho tất cả các ban nhạc lớn ra khỏi thị trấn,” . “Tôi đã làm cho cây Bass Fender thành công!”
Israel “Cachao” López
“Cachao có thể chơi ở bất cứ nhóm tiết tấu (rhythm section) nào .” —Andy Gonzalez, tháng sáu 1998.
Sinh ra ở Cuba năm 1918, Cachao đã cùng lập nên ban mambo trong thập niên ’30 và ’40, và trong thập niên ’50 ông đã chơi trong các track của album Cuban Jam Sessions. Cachao đã đi tiên phong trong nhiều kỹ thuật acoustic-bass như chơi tiết tấu trên thân đàn, chơi kiểu danzón bằng vỹ kéo. Jaco đã coi Cachao là người chơi bass yêu thích của mình.
Đĩa nhạc đại diện
Cuban Jam Sessions in Miniature Descargas
(còn tiếp…)